Partner im RedaktionsNetzwerk Deutschland
Radio Logo

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Podcast TẠP CHÍ VIỆT NAM
Podcast TẠP CHÍ VIỆT NAM

TẠP CHÍ VIỆT NAM

hinzufügen

Verfügbare Folgen

5 von 24
  • "Thảm sát làng Phong Nhị" : Chính phủ Hàn Quốc vẫn phủ nhận trách nhiệm
    Vụ “Thảm sát làng Phong Nhị” ở Việt Nam đã trở thành tâm điểm chú ý tại Hàn Quốc thời gian gần đây. Ngày 07/02/2023, Tòa án quận Trung tâm Seoul đã ra phán quyết sơ thẩm yêu cầu chính phủ Hàn Quốc xin lỗi và bồi thường hơn 30 triệu won cho bà Nguyễn Thị Thanh, nguyên đơn có người thân chết trong vụ thảm sát. Đây là lần đầu tiên một tòa án Hàn Quốc thừa nhận trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với các nạn nhân vụ thảm sát năm 1968 tại Quảng Nam. Tuy nhiên, đối với bộ Quốc Phòng Hàn Quốc, phán quyết của tòa làm ô danh quân đội nước này vì binh lính Hàn Quốc không gây ra các vụ thảm sát trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Bộ trưởng Lee Jong Sup giải thích trước Quốc Hội hôm 17/02 rằng tình hình ở Việt Nam lúc đó “rất phức tạp” và “có nhiều trường hợp người mặc quân phục Hàn Quốc nhưng không phải là lính Hàn Quốc”. Ngày 09/03, bộ Quốc Phòng Hàn Quốc cho biết đã kháng cáo phán quyết của tòa án.   Ngay lập tức, Việt Nam đã đề nghị Seoul “tôn trọng sự thật lịch sử” về vụ thảm sát ở Quảng Nam. Trong buổi họp báo chiều 09/03, phó phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng cho biết :  “Chúng tôi rất lấy làm tiếc trước việc chính phủ Hàn Quốc kháng cáo phán quyết của tòa án. Và việc này không phản ánh đúng sự thật khách quan đối với vấn đề này. Việt Nam chủ trương gác lại quá khứ, hướng tới tương lai nhưng không có nghĩa là phủ nhận sự thật lịch sử (…). Và trên tinh thần đối tác chiến lược toàn diện, Việt Nam đề nghị phía Hàn Quốc nhận thức đúng đắn và tôn trọng sự thật lịch sử, khuyến khích các hành động thiết thực, hiệu quả nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, góp phần vào củng cố, tăng cường tình hữu nghị và quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa hai nước, cũng như nhân dân hai nước”.   Thông tín viên Trần Công tại Seoul cho biết thêm về vụ kiện, cũng như phản ứng của công luận tại Hàn Quốc. Những bức ảnh được giải mật phản ánh 50 năm chịu nỗi đau thảm sát  Bà Nguyễn Thị Thanh là một trong số ít những người sống sót và đã mất gia đình trong vụ thảm sát 74 người do lữ đoàn thủy quân lục chiến số 2 Hàn Quốc gây ra ở làng Phong Nhất - Phong Nhị năm 1968. Bà từng được Bảo Tàng Hòa Bình mời đến Hàn Quốc năm 2018 để làm nhân chứng cho vụ thảm sát ở làng Phong Nhị. Bà cho biết “vô cùng vui mừng” về phán quyết của tòa vì đó “sẽ là niềm an ủi hương linh những người thiệt mạng”, cũng như nỗi đau suốt hơn 50 năm mất người thân và ba năm đấu tranh pháp lý của bà.   Tháng 04/2020, bà Thanh đã đệ đơn kiện chính phủ Hàn Quốc về tội ác của quân đội nước này trong chiến tranh Việt Nam, yêu cầu chính phủ Hàn Quốc xin lỗi và bồi thường 30 triệu won (580 triệu đồng). Theo lời bà Thanh, vụ thảm sát xảy ra ngày 14 tháng 1 âm lịch năm 1968, binh lính Đại Hàn tấn công vào làng, bà Thanh (lúc đó 8 tuổi) được dì ruột kéo xuống hầm để trốn cùng ba anh chị em nhưng bị lính Đại Hàn phát hiện. Trong bản án, được hãng tin Yohap trích dẫn, bà Thanh cho biết : “Vào thời điểm đó, các binh sĩ buộc gia đình nguyên đơn ra khỏi nhà, đe dọa bằng đạn thật và súng, trước khi bắn họ. Kết quả là gia đình nguyên đơn đã chết tại hiện trường và nguyên đơn cùng những người khác bị thương nặng”. Bà may mắn được người chú đưa ra Đà Nẵng cứu chữa.  Vụ thảm sát được nhà báo Koh Kyeong Tae đưa ra ánh sáng khi tổ chức triển lãm ảnh về các nạn nhân làng Phong Nhất-Phong Nhị tại Art Link Gallery ở Seoul, khai trương ngày 09/09/2016. Sự kiện này xảy ra ngày 12/02/1968, sau trận càn của đại đội 1, tiểu đoàn 1, lữ đoàn 2 đơn vị Rồng xanh Hàn Quốc.  Sau trận càn, hạ sĩ J. Vaughn, thuộc đơn vị thủy bộ số 3 của thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, đã vào tiếp quản khu vực và phát hiện nhiều thường dân bị sát hại, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em. Hạ sĩ Vaughn đã chụp ảnh và báo cáo lên cấp trên. Tuy nhiên, sự việc chỉ được công bố sau 32 năm, theo luật giải mật của chính phủ Hoa Kỳ. Nhiều năm sau đó, nhà báo Koh Kyeong Tae đã đến Việt Nam nhiều lần để phỏng vấn cũng như tìm hiểu thêm thông tin về vụ thảm sát và cho ra đời cuốn sách “12-2-1968”.      "Xin lỗi là thể hiện tính nhân văn" Trong phán quyết sơ thẩm ngày 17/02/2023, tòa cho rằng “bà Thanh phải chịu nhiều vết thương nghiêm trọng do quân đội Hàn Quốc gây ra”, đồng thời khẳng định sự việc là “hành động phạm pháp rõ ràng”. Về thắng lợi của nguyên đơn ở cấp sơ thẩm, bà Kiều Chinh, trợ lý luật sư của Văn phòng luật Law Firm Law Win, nhận định :   “Một đất nước xin lỗi những người bị hại, việc đó không gây ảnh hưởng đến uy tín của nước đó, mà thực ra còn nâng uy tín lên. Việc tòa án ra phán quyết bồi thường cho nạn nhân Việt Nam, về mặt lý dĩ nhiên là phải bồi thường. Còn về mặt tình, tôi thấy rằng thông qua sự việc này, người dân hay chính phủ Việt Nam, về mặt ngoại giao, cũng có cái nhìn tôn trọng hơn đối với Hàn Quốc. Việc xin lỗi cũng là hành động thể hiện Hàn Quốc rất coi trọng mối quan hệ với Việt Nam và người dân Việt Nam”.  Tuy nhiên, con đường vẫn còn dài vì bộ Quốc Phòng Hàn Quốc đã kháng án. Bà Kiều Chinh giải thích : “Hiện tại bây giờ mới là ở tòa sơ thẩm, còn phải lên tòa phúc thẩm. Khi họ kháng án, có nghĩa là bản án vẫn chưa có hiệu lực chính thức. Cho nên để đến khi bản án thực sự có hiệu lực thì còn rất là xa, vì bên quân đội Hàn Quốc sẽ liên tục đưa ra những phản ứng”. Chị Linh, nhân viên của đài KBS Hàn Quốc, hi vọng phiên tòa sẽ được truyền thông Hàn Quốc chú ý nhiều hơn. Phán quyết ở cấp sơ thẩm thừa nhận trách nhiệm của Hàn Quốc đối với tội ác chiến tranh tại Việt Nam còn có ý nghĩa lớn sau này, theo giải thích của chị Linh :   “Đây là một phán quyết bước đầu để mở ra cơ hội cho cả hai bên Việt Nam và Hàn Quốc tìm ra hướng đi trong vấn đề mà chúng ta đã cố gắng giải quyết từ rất lâu. Những nạn nhân trong vụ thảm sát ở miền Trung Việt Nam do các binh đoàn của Hàn Quốc gây ra trong chiến tranh Việt Nam cũng đã dành nhiều thời gian để đi tìm lại công lý cho bản thân và gia đình của họ. Việc này cũng giống như việc Hàn Quốc luôn yêu cầu Nhật Bản phải xin lỗi và công nhận sự thật đã xảy ra trong quá khứ và yêu cầu bồi thường cho các nạn nhân. Và chúng ta sẽ có thể vượt qua quá khứ đau thương để tiến đến một tương lai tốt đẹp hơn thay vì cứ lờ sự việc đó”.   Tranh cãi tại Hàn Quốc  Vai trò của quân đội Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam vẫn là chủ đề gây tranh cãi. Một số người Hàn Quốc khẳng định sự có mặt của quân đội nước này là hợp pháp vì Hoa Kỳ và Hàn Quốc lúc đó là đồng minh của Việt Nam Cộng Hòa. Trên lý thuyết, nhiệm vụ của họ là duy trì trật tự công cộng, hỗ trợ người dân, và quét sạch Việt Cộng ra khỏi lãnh thổ miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa).   Năm 2017, tổng thống Hàn Quốc Moon Jae In đã ca ngợi “tinh thần yêu nước”, “sự cống hiến và hy sinh” của quân nhân Hàn Quốc tham chiến ở Việt Nam để “nền kinh tế Hàn Quốc tồn tại được”. Phát biểu này đã buộc đại diện bộ Ngoại Giao Việt Nam phản đối với đại diện sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam, theo trang VTC ngày 12/06/2017.   Công luận Hàn Quốc có ý kiến trái chiều về bối cảnh, cũng như vai trò của binh lính Hàn Quốc ở làng Phong Nhất. Một người nêu ý kiến : “Vào thời điểm đó, khó có thể phân biệt được đâu là bạn đâu là thù. Ngôi làng lúc đó là một bãi chiến trường. Và rất có thể lính Việt cộng sẽ tấn công bất kỳ lúc nào kể cả vào ban đêm”.   Một người khác có chung nhận định : “Nếu chúng ta sai thì chúng ta phải xin lỗi và bồi thường. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Việt cộng có thể đã trà trộn và cải trang thành thường dân, và quân đội Đại Hàn khó có thể phân biệt từng người một trong chiến tranh. Nhật Bản cũng đã làm hàng loạt tội ác như vậy với người dân Trung Quốc”.  Một số khác đồng tình về phát quyết sơ thẩm, thậm chí yêu cầu bồi thường cao hơn: “Chính phủ phải đền cho họ 100 triệu won, chứ không phải 30 triệu won” ; “30 triệu won là quá ít cho cả một gia đình bị tàn sát”.  Phiên tòa về “Thảm sát làng Phong Nhị” diễn ra trong bối cảnh Hàn Quốc cũng tổ chức nhiều phiên xử về “Phụ nữ giải sầu” dưới thời quân đội Nhật chiếm đóng trong Thế Chiến II. Theo giới nghiên cứu sử học, đa số nạn nhân là phụ nữ Hàn Quốc, Trung Quốc và Đông Nam Á. Nhiều nhân chứng và nạn nhân Hàn Quốc đã theo đuổi vụ kiện chính quyền Tokyo trong nhiều năm nhưng chưa có kết quả. Chính phủ Nhật Bản phủ nhận các cáo buộc liên quan ngay tại Liên Hiệp Quốc. Nhiều đơn kiện do chính tòa án Seoul tuyên thắng trong tòa sơ thẩm, nhưng lại bị phán vô hiệu ở phiên phúc thẩm nhờ quy định “miễn trừ chủ quyền” của Tokyo.  Bà Kiều Chinh, Văn phòng luật Law Firm Law Win, cho biết thêm : “Vào thời chiến tranh, lính Nhật Bản cũng đã làm những hành động độc ác với người dân Hàn Quốc. Nhưng hiện tại, chính phủ Nhật Bản vẫn làm một động tác rất sai về mặt chính trị, về tình lý, đó là từ chối bồi thường hay xin lỗi người dân Hàn Quốc”.  Phong trào "Xin lỗi Việt Nam" Trong những năm qua, rất nhiều tổ chức cũng như cá nhân Hàn Quốc đã đến thăm các nạn nhân cũng như các ngôi làng bị lính đại Hàn càn quét trong chiến tranh Việt Nam. Tiến sĩ Ku Su Joeng, người khởi xướng phong trào “Xin lỗi Việt Nam” vào năm 1999, cũng đã đăng nhiều bài báo phơi bày mặt trái của quân đội Hàn Quốc khi tham chiến tại Việt Nam.   Vào ngày 14/02/2023, ông Kim Chang Sup, trưởng đoàn quỹ hòa bình Hàn - Việt, cùng với các thành viên đến từ Hàn Quốc đã đọc thư xin lỗi nhân dân Việt Nam và cúi đầu xin lỗi dân làng. Tại đây, một nhà tưởng niệm đã được xây dựng nhờ sự hỗ trợ kinh phí của nhiều bên bao gồm của cả Hội Cựu Chiến binh Hàn Quốc. Chiến tranh đã qua đi nhưng vết thương nó để lại vẫn hiện hữu trong cuộc sống của nhiều người và nhiều dân tộc. Việc nhìn lại và đánh giá lịch sử nên được làm một cách khách quan bởi những con người có lương tri và không vì mục đích hay vụ lợi.
    3/20/2023
    9:26
  • Nhân sự lãnh đạo Việt Nam sẽ còn xáo trộn cho đến Đại hội Đảng kỳ tới
    Ngày 02/03/2023, Quốc Hội Việt Nam đã chính thức bầu ông Võ Văn Thưởng làm tân chủ tịch nước, thay thế ông Nguyễn Xuân Phúc, đã bị buộc phải từ chức vào tháng 1. Nhưng từ đây cho đến Đại hội Đảng kỳ tới vào năm 2026, bộ máy lãnh đạo của Việt Nam sẽ còn gặp xáo trộn do tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ tiếp tục chuẩn bị cho người kế nhiệm ông ở chức vụ cao nhất này. Tuy vậy, những thay đổi về nhân sự lãnh đạo sẽ không ảnh hưởng nhiều đến đường lối kinh tế và ngoại giao của Hà Nội. Đó là nhận định chung của nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore khi trả lời RFI Việt ngữ ngày 03/03. RFI: Xin chào anh Lê Hồng Hiệp, sau việc thay đổi chức danh chủ tịch nước, theo anh, sẽ còn những xáo trộn nào khác trong bộ máy lãnh đạo hay không, bởi vì có những tin đồn là có thể Việt Nam sẽ thay luôn cả thủ tướng Phạm Minh Chính? Không biết những lời đồn đoán đó có đúng không? Lê Hồng Hiệp: Tôi cũng có nghe các lời đồn như vậy và trong bối cảnh chưa có gì rõ ràng, tôi không thể khẳng định được điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Nhưng theo tôi hiểu thì có thể tiếp tục diễn ra những thay đổi nhân sự cấp cao trước thềm Đại hội Đảng năm 2026 hoặc có thể sớm hơn. Lý do là ở Đại hội Đảng lần thứ 13 vào năm 2021, các dàn xếp lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đã diễn ra không theo như dự tính ban đầu của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Thay vì tìm được người thay thế ông Trọng ở vị trí tổng bí thư, thì ông Trọng đã phải ở lại thêm một nhiệm kỳ thứ ba, bất chấp quy định của điều lệ Đảng là một người không thể nắm giữ vị trí ấy quá 2 nhiệm kỳ liên tiếp. Một điều bất thường nữa là vị trí thủ tướng. Thay vì theo truyền thống là một phó thủ tướng lên thay, thì ông Phạm Minh Chính, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng, đã lên nắm chức thủ tướng. Trong khi đó, ông Nguyễn Xuân Phúc đáng lẽ về hưu thì lại được trao quy chế “ trường hợp đặc biệt” và được ở lại đến nắm giữ chức chủ tịch nước. Còn ông Vương Đình Huệ, trước đấy được xem là ứng viên cho chức thủ tướng, thì lại chuyển sang làm chủ tịch Quốc Hội.  Theo tôi, ở Đại hội 13, các dàn xếp đó đã diễn ra không đúng ý muốn và nó đặt ra vấn đề là, nếu như trong thời gian sau Đại hội 13 mà không có một dàn xếp, đặc biệt là tìm được người thay ông Nguyễn Phú Trọng, thì nó sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng lãnh đạo có thể rất là nghiêm trọng, có thể ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị ở Việt Nam, thậm chí ảnh hưởng đến an ninh chế độ.  Cho nên vấn đề đặt ra là phải tìm ra một kế hoạch chuyển giao quyền lực “thuận buồm xuôi gió”. Trong bối cảnh đó, vừa qua có một số chuyển động nhân sự ở cấp cao và tôi nghĩ rằng những chuyển động này diễn ra không phải là hoàn toàn vô tình hay dựa hoàn toàn trên logic về chống tham nhũng, mà có thể liên quan đến những dàn xếp để làm sao có được một kế hoạch chuyển giao quyền lực êm thắm, đặc biệt là ở vị trí tổng bí thư. Chủ tịch nước là một trong những vị trí “tứ trụ” và có thể ảnh hưởng tới cuộc chạy đua giành chức tổng bí thư. Thủ tướng cũng có thể là một vị trí tạo ra bệ phóng cho cuộc chạy đua giành chức tổng bí thư. Chính vì vậy, hiện tại đang có những chuyển động theo hướng loại bỏ bớt những ứng viên tiềm tàng có thể gây xáo trộn cho kế hoạch chuyển giao quyền lực. Theo tôi hiểu thì có thể ông Nguyễn Phú Trọng đang muốn chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ là người tiếp quản chiếc ghế tổng bí thư và ở đây có một sự dàn xếp để làm sao không có những thách thức đối với sự dàn xếp này. Sau khi ông Phúc rời chính trường, thì còn lại một ứng viên tiềm tàng là ông Phạm Minh Chính RFI:  Nhưng theo anh, để gạt bỏ ông Phạm Minh Chính khỏi chiếc ghế thủ tướng thì phe của ông Trọng phải dựa trên những lý do gì ? Lê Hồng Hiệp: Ông Chính, theo tôi hiểu, cũng là một người có năng lực và có sức làm việc đáng nể, ít nhiều được thể hiện trong thời gian qua, đặc biệt là trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, bản thân ông được cho là có những vấn đề nhất định, nổi cộm nhất là ông được cho là có quan hệ thân thích với bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, chủ tịch của tập đoàn AIC, bị truy tố và bị tuyên án vắng mặt 30 năm tù. Những rắc rối này có thể ảnh hưởng đến triển vọng chính trị của ông Phạm Minh Chính và không loại trừ khả năng là ông có thể bị buộc phải từ chức trong thời gian tới. Trong trường hợp đấy, chúng ta sẽ thấy là các dàn xếp để tạo điều kiện cho việc chuyển giao quyền lực cho chức tổng bí thư sẽ đi đến hồi kết và mang trở lại sự ổn định cho hệ thống chính quyền ở Việt Nam. Tôi nghĩ đó là mục đích cuối cùng của những chuyển động nhân sự vừa rồi. RFI: Từ đây cho đến khi ban lãnh đạo Việt Nam đi đến ổn định, người ta thấy là những người lên thay nắm các chức vụ cao cấp sau này thì có vẻ có xu hướng bảo thủ, giáo điều, không giống như phe chủ trương kinh tế tự do như những những lãnh đạo kia. Liệu sự thay đổi này có ảnh hưởng gì đến chính sách kinh tế của Việt Nam? Lê Hồng Hiệp: Các chuyển động nhân sự vừa rồi chủ yếu liên quan đến các đấu tranh quyền lực trong nội bộ thượng tầng kiến trúc của đảng Cộng Sản Việt Nam, không liên quan đến yếu tố ý thức hệ. Ví dụ như nhiều người cho rằng vị trí thủ tướng hay chủ tịch nước, như bản thân ông Nguyễn Xuân Phúc trước đây là thủ tướng thì ông có xu hướng cởi mở hơn, thân thiện với các doanh nghiệp hơn. Hay có người cho rằng ông Nguyễn Phú Trọng hay ông Võ Văn Thưởng là những người giáo điều, bảo thủ hơn.  Tôi nghĩ không phải là như vậy, bởi vì ta thấy là các vị trí này có chức năng khác nhau. Muốn đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội cho Việt Nam, thì bất cứ ai làm thủ tướng cũng sẽ có xu hướng cởi mở hơn, tự do hơn về mặt kinh tế, muốn thúc đẩy đầu tư, có tư tưởng đổi mới, thân thiện với doanh nghiệp hơn. Trong khi đó, bên phía Đảng, đặc biệt là tổng bí thư, thì nhiệm vụ chính không phải là phát triển kinh tế xã hội, mà là bảo vệ vai trò của đảng Cộng Sản Việt Nam và đặc biệt là làm sao duy trì chế độ. Chính vì vậy mà bất cứ ai ngồi vào ghế tổng bí thư cũng sẽ có xu hướng ít nhiều bị coi là bảo thủ, giáo điều. Cho dù ai lên làm lãnh đạo thì đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn phải đề cao nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và muốn đạt được mục tiêu này thì họ phải tiếp tục thu hút đầu tư và mở rộng các biện pháp kinh tế, đặc biệt là về xuất khẩu. Việc phát triển kinh tế xã hội, giúp cải thiện đời sống của người dân đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng tính chính danh của đảng Cộng Sản Việt Nam. Nếu như đảng Cộng Sản Việt Nam có thể tiếp tục phát triển kinh tế xã hội, giúp cải thiện đời sống của người dân, họ sẽ gặp ít thách thức hơn trong việc giữ vững quyền lực của mình. Còn ngược lại, nếu kinh tế xã hội đi xuống, cuộc sống người dân ngày càng khó khăn thì có thể dẫn đến sự bất mãn, chống đối, thách thức vai trò lãnh đạo của Đảng. Mục tiêu cuối cùng của bất cứ ai lên làm lãnh đạo cấp cao nào trong thời gian tới vẫn là bảo vệ vai trò của Đảng, bảo vệ chế độ của đảng Cộng Sản Việt Nam.  RFI: Riêng về mặt đối ngoại, những xáo trộn về nhân sự lãnh đạo có tác động gì hay không? Cho tới nay, Việt Nam vẫn giữ một chính sách trung dung, “đi dây” giữa hai cường quốc Hoa Kỳ và Trung Quốc. Như vậy là chính sách có được tiếp tục hay không hay sẽ ít nhiều bị ảnh hưởng? Lê Hồng Hiệp:  Sau Đại Hội 20 của đảng Cộng Sản Trung Quốc, khi ông Nguyễn Phú Trọng sang thăm, trở thành nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc sau Đại Hội, một số người cho rằng đấy là dấu hiệu cho thấy ông Trọng, hay Việt Nam đang xích gần lại Trung Quốc. Tương tự như vậy, khi  một số lãnh đạo Việt Nam được đào tạo ở phương Tây như phó thủ tướng Phạm Bình Minh hay phó thủ tướng Vũ Đức Đam, vừa bị cho thôi chức, thì nhiều người diễn dịch nó là một động thái cho thấy Việt Nam đang dịch chuyển về phía Trung Quốc và rời xa phương Tây. Theo tôi, hoàn toàn không phải như vậy. Ở đây chỉ liên quan đến các động lực ở thượng tầng kiến trúc chính trị ở Việt Nam, không liên quan đến chính sách đối ngoại. Cho dù ai là lãnh đạo Việt Nam trong thời gian tới, thì cũng không có lựa chọn nào khác là phải  tiếp tục chính sách ngoại giao cân bằng giữa các nước lớn, đặc biệt là giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ, vì cả hai nước này đều đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Như tôi đã phân tích ở trên, đó là nhiệm vụ rất là cốt yếu của đảng Cộng Sản Việt Nam để duy trì tính chính danh cũng như khả năng cầm quyền. Cả hai cường quốc đều quan trọng như vậy, cho nên Việt Nam không thể hy sinh quan hệ với nước này để phát triển quan hệ với nước kia, vì làm như vậy chính là tự sát. Thứ hai, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung ngày càng căng thẳng như vậy, nếu Việt Nam nghiêng về bên này và lơ là bên kia thì sẽ bị cuốn vào cuộc cạnh tranh nước lớn. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam sẽ gặp nhiều bất lợi, sẽ mất đi sự tự chủ chiến lược, có thể ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định của quốc gia  mình, cũng như của khu vực, kéo theo hệ lụy là tư thế chiến lược của Việt Nam sẽ bị suy yếu và cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến triển vọng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Chính vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam sẽ phải tiếp tục duy trì chính sách ngoại giao cân bằng, “đi dây” giữa các cường quốc, để giúp duy trì được sự tự chủ chiến lược, qua đó tận dụng tối đa sự hỗ trợ của các cường quốc khác cũng như thị trường Trung Quốc và Mỹ để giúp phát triển kinh tế, và qua đó duy trì được vai trò lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời gian tới.
    3/13/2023
    9:37
  • Việt Nam : Đảng củng cố quyền lực để tăng cường chống tham nhũng
    Ông Võ Văn Thưởng, 52 tuổi, trở thành chủ tịch nước trẻ nhất của Việt Nam sau khi được Quốc Hội thông qua gần như với số phiếu tuyệt đối hôm 02/03/2023. Thuộc thế hệ trẻ và nổi tiếng trung thành với đảng Cộng Sản, ông Võ Văn Thưởng được cho là sẽ giúp tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tăng cường ảnh hưởng, mạnh tay chống tham nhũng, như lời ông cam kết « kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực » khi tuyên thệ nhậm chức. Ở cương vị chủ tịch nước, ông Võ Văn Thưởng sẽ phải tập trung vào các vấn đề ở cấp độ Nhà nước và ngoại giao, trong khi ông lại tương đối « non nớt » trong lĩnh vực đối ngoại, theo đánh giá của giáo sư danh dự Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc Phòng Úc. Gần như toàn bộ sự nghiệp của ông Võ Văn Thưởng là làm công tác Đảng và tham gia chiến dịch đấu tranh chống tham nhũng khi đảm nhiệm chức Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng. Tại sao ông Võ Văn Thưởng lại được Ban Chấp Hành Trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam giới thiệu làm chủ tịch nước ? Việc bổ nhiệm ông Thưởng tác động như thế nào đến chính trường Việt Nam ? Giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược (IRSEM), Trường Quân sự Pháp, trả lời một số câu hỏi của RFI Tiếng Việt. * RFI : Ông đánh giá thế nào về bối cảnh việc bổ nhiệm ông Võ Văn Thưởng làm chủ tịch nước Việt nam. Tại sao lại là ông Thưởng mà không phải là người khác ? Benoît de Tréglodé : Bối cảnh chung là quyết tâm tiếp tục theo đuổi chiến dịch chống tham nhũng đã khiến chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc bị mất chức hồi tháng 01/2023, cũng như hai phó thủ tướng. Trong bối cảnh này, Bộ Chính Trị đã tìm người kế nhiệm. Ông Võ Văn Thưởng có lợi thế lớn là có lý lịch và sự nghiệp tương đồng với ông tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Đây là điểm quan trọng. Ngoài ra, cần phải biết là sự nghiệp chính trị của ông Võ Văn Thưởng thăng tiến từ những vị trí trong Đoàn Thanh niên Cộng Sản, ngay những năm ông 20 tuổi, ở thành phố Hồ Chí Minh, sau đó đưa ông đến thượng tầng của bộ máy Nhà nước. RFI :Về mặt chính thức, ông Võ Văn Thưởng giữ vị trí số 2 trong bộ máy Nhà nước. Vị trí chủ tịch nước có cần kinh nghiệm ngoại giao vững chắc không ? Việc bổ nhiệm ông Thưởng có tác động như thế nào đến chính trường Việt Nam ? Benoît de Tréglodé : Trước tiên, ông Võ Văn Thưởng hoạt động chính trị từ khá sớm. Con đường này đã đưa ông đến chức vụ bí thư tỉnh Quảng Ngãi trước khi nắm giữ những vị trí ở cấp quốc gia. Chức chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không phải là vị trí trung tâm nhất trong bộ ba quyền lực, không phải là vị trí quan trọng nhất. Từ lâu, chức chủ tịch nước được coi như là một vị trí danh dự. Nếu nhìn từ điểm này thì không hẳn cần phải có kinh nghiệm ngoại giao. Nếu nhìn vào quá trình sự nghiệp của ông Võ Văn Thưởng thì thấy ông không có kinh nghiệm về quốc tế. Vì thế, có thể đối với những người đang suy nghĩ về tương lai vào lúc mà Đại Hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 14 vào năm 2026 đang đến, thì họ có thể coi 2-3 năm tới là bài trắc nghiệm cho ông Thưởng để xem ông có thực sự hội tụ đủ tố chất cần thiết để đảm nhận một vị trí khác hay không. Nhưng chưa có gì là chắc chắn nếu chúng ta nhìn vào những người đã giữ chức chủ tịch nước Việt Nam. Vị trí này không hẳn là bàn đạp để sau này nắm giữ những chức vụ quan trọng hơn. RFI : Ông Võ Văn Thưởng là người miền nam, phải chăng ở đây có chủ đích cân bằng vùng miền ở vị trí « tứ trụ » ? Hay do chỉ có một ứng viên duy nhất được lựa chọn ? Benoît de Tréglodé : Đúng thế, thậm chí còn có ý kiến cho là từ tháng 04/2021, không có đại diện của miền nam trong « tứ trụ », tức bốn chức vụ quan trọng nhất trong bộ máy Nhà nước Việt Nam : tổng bí thư đảng, thủ tướng, chủ tịch Quốc Hội, chủ tịch nước. Có thể có thêm khía cạnh này, dù tôi nghĩ rằng hiện nay ảnh hưởng của phe vẫn được gọi là « phe miền nam » bị phai nhạt một chút, bớt mạnh hơn so với trước đây. Tuy nhiên, sự nghiệp của ông Võ Văn Thưởng khá thú vị vì ông là người miền nam, nhưng lại sinh ra ở miền bắc, tại tỉnh Hải Dương, trong một gia đình gốc Vĩnh Long tập kết ra bắc thời chiến. Ông Thưởng sinh năm 1970, sau đó ông học tập và bắt đầu sự nghiệp chính trị ở miền nam, nhưng dù sao ông vẫn sinh ra ở miền bắc. Chính việc có nguyên quán miền nam, sinh ở miền bắc này đã tạo cho ông Thưởng lợi thế lớn trong bộ máy Nhà nước hiện nay và ông đại diện cho miền nam Việt Nam. RFI : Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ nghỉ hưu. Dường như ông Võ Văn Thưởng được coi là người kế nhiệm ông Trọng. Liệu điều đó có giúp « phe miền nam » có thể có lợi thế trong tương lai ? Benoît de Tréglodé : Trước hết, tôi nghĩ là hiện giờ, không thể biết được ai sẽ thay thế tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Liệu ông Trọng có làm đến hết nhiệm kỳ vào năm 2026 không ? Liệu ông Trọng có từ chức trước thời hạn vì lý do sức khỏe không ? Không ai thực sự biết được chính xác. Rất nhiều chính trị gia quan tâm đến vị trí lãnh đạo chế độ Việt Nam. Người ta từng nói đến chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ, một trong những người từng được coi là ứng cử viên. Người ta cũng biết là từ Đại Hội Đảng lần thứ 13, bộ trưởng Công An Tô Lâm cũng quan tâm đến vị trí này. Tôi nghĩ là còn quá sớm để có thể đưa ra kiểu giả thuyết như vậy. Vì thế việc coi tân chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, vừa mới được bầu hôm 02/03, là một ứng cử viên kế nhiệm chức tổng bí thư đảng thì tôi nghĩ là cũng chưa đủ chắc chắn. Ông Thưởng có một sự nghiệp thú vị vì đó là sự nghiệp của cán bộ Đảng vẫn luôn bảo vệ tư tưởng, học thuyết Mac-Lênin ở Việt Nam, hệ tư tưởng của Nhà nước. Ông Thưởng có chung điểm này với tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, người sử dụng những năm lãnh đạo cuối cùng để bảo vệ tư tưởng, tương lai và thành công của chế độ chính trị Việt Nam. RFI : Có nghĩa là chiến dịch chống tham nhũng sẽ được tiếp tục tiến hành mạnh tay ? Benoît de Tréglodé : Chiến dịch chống tham nhũng gần như là yếu tố thường trực trong đời sống chính trị Việt Nam. Đúng là trong nhiệm kỳ thứ 3, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã biến chống tham nhũng thành « thương hiệu » của ông. Chính ông là người tung hết chiến dịch chống tham nhũng này đến chiến dịch bài trừ tham nhũng khác từ 10 năm qua. Nhưng trước thời ông Trọng, chính trường Việt Nam vẫn được điểm xuyết bằng những chiến dịch chống tham nhũng. Vì thế, chống tham nhũng không phải là điều gì mới và xu hướng này vẫn chưa sẵn sàng dừng lại. Có hai yếu tố giải thích cho việc này. Trước tiên, như mọi người đều biết, tham nhũng ở Việt Nam diễn ra ở mọi tầng lớp trong xã hội, có tham nhũng vặt, tham nhũng ở quy mô vừa và đại tham nhũng. Vì thế, một đảng đang tìm kiếm tính chính đáng, đang tìm cách củng cố tính chính đáng trong một đất nước trẻ, năng động, một đất nước mở cửa với thế giới, nhất là với những chế độ chính trị khác nhau ở châu Á, thì rất cần cho người dân thấy rằng Đảng có khả năng bắt những con cá lớn, rằng Đảng phải thể hiện sự trong sạch nhất định và đấu tranh chống tham nhũng trong thành phần đảng viên. Vì thế, điều quan trọng là Đảng cần phải củng cố vị trí ở Việt Nam. Tuy nhiên, đối với giới tinh hoa, như người ta vẫn nói, quan trọng là cũng phải tranh thủ thời cơ này để có thể gạt bỏ những đối thủ cạnh tranh vướng víu nhằm củng cố tham vọng của mình. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược (IRSEM), Trường Quân sự Pháp. Không có thay đổi lớn trên chính trường Việt Nam Sự kiện chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc xin thôi mọi chức vụ ngay trước kỳ nghỉ Tết Nguyên đán đã khiến truyền thông quốc tế tốn không ít giấy mực. Việc đảng Cộng Sản Việt Nam gấp rút bổ nhiệm ông Võ Văn Thưởng thay thế, sau đó được Quốc Hội nhanh chóng thông qua, cũng được bình luận rất nhiều trong những ngày vừa qua. Điểm chung đầu tiên, được truyền thông và giới chuyên gia nhận định là việc bổ nhiệm ông Võ Văn Thưởng, thành viên trẻ nhất của Bộ Chính Trị của đảng Cộng Sản Việt Nam, làm chủ tịch nước Việt Nam không gây bất ngờ và xáo trộn lớn cho đất nước. Đối với trang BBC, đây là « lựa chọn an toàn » và là « lựa chọn rất thận trọng », loại bỏ những quan ngại về khả năng Nhà nước cảnh sát. Tiếp theo, về đối ngoại, Việt Nam luôn cố giữ cân bằng giữa hai cường quốc Mỹ và Trung Quốc hiện cạnh tranh và đối đầu nhau trên nhiều mặt trận (Biển Đông, chiến tranh Ukraina, thương mại…). Việc bổ nhiệm một cán bộ Đảng chuyên nghiệp làm chủ tịch nước có thể khiến Bắc Kinh hài lòng, nhưng cũng không hẳn làm phật lòng phương Tây vì chủ tịch nước Việt Nam vẫn được coi là một chức vụ « danh dự » và quyền hạn trao cho chủ tịch nước vẫn còn hạn chế, theo trang Nikkei Asia. Giáo sư Carl Thayer, thuộc Học viện Quốc Phòng Úc, cho rằng « với tư cách là chủ tịch nước, ông Thưởng có lẽ sẽ không đề xướng các thay đổi trong chính sách đối ngoại của Việt Nam » vì « cần có sự đồng thuận rất cao trong số các lãnh đạo chủ chốt. Hơn nữa, chính sách đối ngoại là kết quả của quyết định tập thể và đồng thuận trong Bộ Chính Trị ».
    3/6/2023
    9:13
  • Singapore : Một lựa chọn hợp tác giúp Việt Nam hoàn thiện chính phủ điện tử
    Thẻ căn cước công dân điện tử là một trong những thành công mới nhất trong công cuộc chuyển đổi số ở Việt Nam và được sử dụng thay thế sổ hộ khẩu giấy, chính thức bị xóa bỏ từ ngày 01/01/2023. Quá trình này đang được tăng tốc để hướng đến mục tiêu vào năm 2025, Chính phủ điện tử Việt Nam vào top 50 thế giới (hiện đứng thứ 86) và đến năm 2030, được xếp vào nhóm 30 nước dẫn đầu, theo xếp hạng của Liên Hiệp Quốc. Ngoài sự hỗ trợ năng động của Pháp trong lĩnh vực này, Hà Nội muốn mở rộng hợp tác, học hỏi kinh nghiệm của Singapore, hiện đứng đầu các nước Đông Nam về chính phủ điện tử. Việt Nam giữ vị trí thứ 6 trên 11 nước trong khu vực, sau cả Malaysia, Thái Lan, Brunei và Indonesia. Dùng thẻ căn cước điện tử để bỏ quản lý hộ khẩu theo mô hình Trung Quốc Năm 2020 được xem là bước khởi đầu với Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Đến tháng 06/2021, lần đầu tiên Việt Nam ban hành Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Thực ra, con đường chuyển đổi số ở Việt Nam đã được định hình từ nhiều năm trước, theo nhà nghiên cứu Hà Hoàng Hợp, cộng tác viên liên kết của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á - ISEAS-Yosof Ishak Institute tại Singapore, khi trả lời RFI Tiếng Việt ngày 21/02 : « Có thể nói, chính phủ điện tử ở Việt Nam bắt đầu từ khoảng năm 2011. Trước đó có kế hoạch được gọi là áp dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động của hệ thống hành chính của chính phủ, tức là công vụ, nhưng thất bại. Sau đó, từ năm 2011-2012, bắt đầu có một kế hoạch khá đầy đủ để xây dựng chính phủ điện tử trong khuôn khổ quân trọng về cải cách hành chính. Như chúng ta biết, Việt Nam có chương trình cải cách hành chính 10 năm (2001-2010). Đó là một chương trình rất tốt, tạo ra những bước tiến cơ bản cho Việt Nam về hành chính, trong đó có cải cách thể chế, cải cách tư pháp, cải cách hệ thống công vụ và tài chính công, cũng như là hệ thống các doanh nghiệp. Trong vòng 10 năm, với sự giúp đỡ, tài trợ của các nước phát triển trong khuôn khổ hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đã đạt được những bước tiến khá tốt. Từ 2012, việc xây dựng « chính phủ điện tử » bắt đầu diễn ra với thủ tục ban đầu là xây dựng các hệ thống internet ổn định và an toàn trong cả nước. Thứ hai là xây dựng những trung tâm dữ liệu. Thứ ba là bắt đầu số hóa các thủ tục hành chính và thủ tục công vụ để đưa vào thư viện và phục vụ, đặc biệt là từ thành phố Hồ Chí Minh, sau đó đến Hà Nội. Nhưng bước đầu tiên để làm những việc đó, là ngay từ năm 2014, Việt Nam đã có một dự án thí điểm là xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư ở Hải Phòng và đã cho kết quả tốt. Từ sau năm 2017 đến nay đã xây dựng được cơ sở dữ liệu dân khá toàn diện. Trên cơ sở đó, chính phủ Việt Nam đã bỏ được hình thức quản lý công dân và quản lý các hộ gia đình bằng hộ khẩu mà chuyển tất cả sang hệ thống căn cước công dân. Đây là hình thức quản lý hiện đại và không còn mang mầu sắc của Trung Quốc nữa. Đó là một việc làm rất lớn. Còn tất cả những dịch vụ gọi là « hệ thống công vụ », có thể nói rằng đang phát triển một cách không đồng đều, nhiều chỗ còn rất chậm. Và ở những nơi đã phát triển được một phần nào đấy thì mức độ an toàn của hệ thống và mức độ ổn định của hệ thống đều ở ngưỡng thấp. Ví dụ ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, mức độ xây dựng chính phủ điện tử này còn đang chậm và các hệ thống đang hoạt động không ổn định ». Singapore : Mô hình mà Việt Nam muốn hợp tác trong khu vực Trong quá trình chuyển đổi số, Việt Nam thường nhắc đến những kinh nghiệm và để nhiều nước phương Tây hỗ trợ mà không đề cập đến Trung Quốc. Ví dụ, bộ Công An nêu trường hợp của « nhiều quốc gia đã tiên phong và đạt được nhiều thành tựu trong thực hiện chính phủ điện tử như Đan Mạch, Hàn Quốc, Singapore, Nga, Đức, Anh, Pháp, Estonia… ». Tại khu vực Đông Nam Á, Singapore là mô hình mà Việt Nam muốn hợp tác bởi vì, theo nhận định của bộ Công An Việt Nam, đảo quốc « thuộc nhóm nước đứng đầu thế giới về chỉ số phát triển Chính phủ điện tử, tiêu biểu là việc xây dựng cơ sở dữ liệu chung, tích hợp tất cả các dịch vụ hành chính công của các bộ/ngành ». Trong chuyến công du Singapore từ ngày 08-10/02/2023 nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược song phương, thủ tướng Phạm Minh Chính đã đề cập với đồng nhiệm Lý Hiển Long về hợp tác « chuyển đổi số, bao gồm chính phủ điện tử, quốc gia thông minh-thành phố thông minh và sản xuất thông minh ». Singapore bắt đầu thực hiện quá trình chuyển đổi số từ cách đây gần nửa thế kỷ, với Chương trình tin học hóa quốc gia ngay từ thập niên 1980. « Đó là điều mà Việt Nam có thể học để có được một hệ thống công vụ số ổn định, nhanh và minh bạch », theo nhà nghiên cứu Hà Hoàng Hợp. « Singapore đã phát triển chính phủ điện tử từ lâu, từ khoảng năm 1998. Khi đó, họ dùng một thuật ngữ, gọi là « công nghệ thông tin hóa hệ thống công vụ » của họ. Bắt đầu từ đó, hơn 20 năm, họ đã làm được nhiều việc khác nhau, từ việc đưa các thủ tục công vụ, tức là thủ tục hành chính, từ đơn giản nhất để số hóa. Cho đến gần đây, họ đã đạt được những mức độ rất cao vì 100% dịch vụ công của họ đã được chuyển đổi số thành công và ở mức độ tất cả các mặt, từ dữ liệu, lưu trữ, an toàn lưu trữ dữ liệu đến các bước xử lý công việc, rồi các quy trình, quy tắc xử lý công việc và công vụ đều được họ làm ở mức độ cao nhất. Chỉ có một mức độ là vì nếu xét ở mức độ là hệ thống chính phủ điện tử của Singapore đạt mức độ thống suốt ở mức cao, nhưng mức độ chính phủ điện tử thông minh thì vẫn chưa đạt được ». Báo Chính phủ Việt Nam cho biết sau chuyến thăm của thủ tướng Phạm Minh Chính, Việt Nam và Singapore dự kiến đẩy mạnh chia sẻ kinh nghiệm quản lý, các sáng kiến, nền tảng trong lĩnh vực chuyển đổi số trên 3 trụ cột : chính phủ số, kinh tế số và xã hội số ; hỗ trợ Việt Nam xây dựng nền tảng số, thúc đẩy chuyển đổi số trên các lĩnh vực ưu tiên, như quản lý dân cư, tài chính ngân hàng, đất đai, thương mại điện tử… Nhà nghiên cứu Hà Hoàng Hợp cho biết thêm : « Về hợp tác giữa Việt Nam và Singapore, trước đây đã đặt vấn đề đó, lúc đầu là từ thời ông Nguyễn Xuân Phúc (khi còn làm chủ tịch nước), sau đó vào tháng 10/2022, tổng thống Singapore đến Việt Nam và cũng đề cập đến vấn đề này. Vừa rồi, ông Phạm Minh Chính đi thăm Singapore, cũng đã đặt vấn đề này, cũng chỉ mở rộng ra một chút. Nhưng phải nói thật là chưa có gì cụ thể. Tất cả mới chỉ tập trung vào việc để hai bên hợp với nhau, chủ yếu là Singapore trao đổi với Việt Nam về kinh nghiệm xây dựng chính phủ điện tử và có thể giúp Việt Nam việc bắt đầu từ khâu chuyển đổi số, đào tạo công chức, nâng cao năng lực của hệ thống công vụ của Việt Nam nói chung và hệ thống huấn luyện trong nước cho việc chuyển từ một chính phủ bình thường thành chính phủ điện tử ». Mở rộng hợp tác với các nước phương Tây có quy mô dân số tương ứng Ngoài ra, nhà nghiên cứu Hà Hoàng Hợp đánh giá mô hình quản lý của Singapore có một số điểm hạn chế đối với Việt Nam, đặc biệt liên quan đến số dân. Đảo quốc chỉ có gần 6 triệu dân, trong khi Việt Nam có gần 100 triệu. Cho nên, Việt Nam cần mở rộng hợp tác về chính phủ điện tử với các nước có quy mô dân số tương tự. « Mô hình mà Việt Nam cần học nhiều, ở khu vực này thì chỉ có mỗi Singapore. Còn thực ra, Việt Nam nên học những nước như Pháp, Úc, Anh thì tốt hơn, bởi vì Singapore là một nước nhỏ, chỉ có 5 triệu người sử dụng hệ thống công vụ, nên việc xây dựng một hệ thống chính phủ điện tử ở Singapore, tôi nghĩ là dễ hơn so với xây dựng ở Việt Nam rất nhiều. Cho nên, Việt Nam cần tính đến cách xây dựng một chính phủ điện tử phục vụ cho số đông, khoảng 100 triệu người. Việc này có thể học từ Pháp, Đức, Anh quốc, Mỹ, dường như sẽ có bài học tốt hơn hẳn so với học từ Singapore ». Pháp là nước hỗ trợ tích cực quá trình hiện đại hóa hành chính Việt Nam thông qua chuyển đổi số. Ngay năm 2018, một thỏa thuận hợp tác liên chính phủ đã được ký nhân chuyến thăm Việt Nam của thủ tướng Pháp. Ông Béla Hégédus, tùy viên hợp tác, trưởng phòng Pháp luật, Tư pháp và Quản trị, Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam, cho biết từ bốn năm nay, Pháp « đã huy động hơn 2 triệu euro, thông qua nguồn tài chính của Cơ quan Phát triển Pháp - AFD và hiện nay là nguồn hỗ trợ của bộ Châu Âu và Ngoại Giao Pháp, và hàng chục chuyên gia Pháp thuộc tất cả các lĩnh vực liên quan đến chuyển đổi số và hiện đại hóa nền hành chính » để trao đổi, tọa đàm, huấn luyện với phía Việt Nam. Một thành công lớn là Cổng dịch vụ công quốc gia Việt Nam đã được ra mắt vào cuối năm 2019. Theo ông Béla Hégédus, Cổng dịch vụ công đã « làm thay đổi cuộc sống hàng ngày của rất nhiều người dân Việt Nam bằng việc đơn giản hóa các thủ tục hành chính » và thu hút « hơn 830 triệu lượt truy cập ». Hiện đã có 4.416 thủ tục hành chính được triển khai trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia của Việt Nam, có nghĩa là « gần 70% các thủ tục hành chính đã được đưa lên mạng ». Giữa năm 2022, đại sứ quán Pháp và Văn phòng Chính phủ Việt Nam đã khởi động dự án « Hỗ trợ hiện đại hóa nền hành chính Việt Nam bằng chuyển đổi số » do bộ Châu Âu và Ngoại giao Pháp tài trợ, xoay quanh ba trụ cột chính : đơn giản hóa thủ tục hành chính, tối ưu hóa quan hệ giữa các cơ quan hành chính, quản lý các chính sách công dựa trên dữ liệu số mở. Đây là một trong số những dự án giúp Việt Nam đạt được chủ trương « 4 không » : Họp không gặp mặt, xử lý văn bản không giấy tờ, giải quyết thủ tục hành chính không tiếp xúc và thanh toán không dùng tiền mặt.
    2/27/2023
    9:36
  • Thỏa thuận Việt Nam - Indonesia: Một hướng giải quyết tranh chấp Biển Đông?
    Sau 12 năm đàm phán, ngày 23/12/2022, Indonesia và Việt Nam đã giải quyết được tranh chấp trên biển, cụ thể là đã kết thúc đàm phán về việc phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) chồng lấn giữa hai nước tại khu vực quần đảo Natuna ở Biển Đông. Thỏa thuận giữa Hà Nội và Jakarta sẽ chấm dứt những căng thẳng lâu nay giữa hai nước, nhưng chắc là sẽ khiến Trung Quốc giận dữ, vì Bắc Kinh vẫn tuyên bố chủ quyền đối với một phần khu vực mà Indonesia và Việt Nam tranh chấp.  Tổng thống Indonesia Joko Widodo và Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã công bố thỏa thuận này trong chuyến thăm cấp nhà nước 3 ngày của ông Phúc tại Indonesia tháng 12 năm ngoái.  Căng thẳng do đánh bắt cá Trong những năm gần đây, Việt Nam và Indonesia thường xuyên gặp căng thẳng tại vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn lên nhau. Lực lượng tuần duyên Indonesia đã tịch thu và phá hủy hàng chục tàu thuyền Việt Nam trong vùng biển tranh chấp, đặc biệt là xung quanh quần đảo Natuna. Năm 2017, một tàu Cảnh sát biển Việt Nam bị cáo buộc đã ngăn chặn một nỗ lực của Indonesia nhằm hộ tống các tàu Việt Nam ra khỏi khu vực tranh chấp. Trong vụ này, một sĩ quan Indonesia bị lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam bắt giữ.  Tháng 4/2019, một tàu Indonesia va chạm với 2 tàu Kiểm ngư Việt Nam. Năm 2019, Indonesia đã phá hủy 38 tàu treo cờ Việt Nam bị cáo buộc đánh bắt trái phép. Đến tháng 3 năm 2021, Cảnh sát biển Indonesia lại bắt giữ hai tàu đánh cá Việt Nam. Ngoài nguồn thủy sản dồi dào, khu vực tranh chấp ranh giới giữa hai nước cũng được coi là giàu tài nguyên thiên nhiên. Thỏa thuận nói trên như vậy là sẽ góp phần chấm dứt nhiều năm đụng độ giữa hai nước trong khu vực tranh chấp, đặc biệt là về nạn đánh bắt cá trái phép. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 05/01/2023, nhà nghiên cứu Hoàng Việt, thuộc Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, nhận định: “ Sau khi hiệp định có hiệu lực thì tình trạng này bắt đầu mới giảm bớt được. Trong thời gian qua, một số ngư dân Việt Nam bị phía Indonesia bắt vì bị cho là vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia, nhưng các ngư dân Việt Nam khẳng định là họ đánh bắt trong vùng biển của Việt Nam, chứ không phải của Indonesia. Nhưng điều này rất khó nói và khó tranh luận. Một trong những yếu tố dẫn đến việc Việt Nam vi phạm thẻ vàng về IUU Fishing ( đánh bắt cá bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định ), đó là có những khu vực mà rất nhiều tàu cá của Việt Nam  bị cáo buộc xâm phạm vùng biển của những quốc gia khác, trong đó có Indonesia.  Sau khi hiệp định chính thức có hiệu lực thì chuyện tranh cãi về việc ngư dân Việt Nam xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Indonesia sẽ rõ ràng hơn, vì chắc chắn là khi phân định thì sẽ phân định rõ nơi nào thuộc đặc quyền kinh tế của Indonesia, nơi nào là của Việt Nam, nơi nào là vùng đánh cá chung của cả hai bên.” Gợi ý cho những tranh chấp khác? Trước mắt, các nhà phân tích tin rằng thỏa thuận giữa Indonesia với Việt Nam sẽ mở đường cho nhiều nước láng giềng của Trung Quốc giải quyết các yêu sách chủ quyền chồng lấn lên nhau ở Biển Đông. Ví dụ, Việt Nam cũng có tranh chấp tương tự với cả Philippines và Malaysia. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt giải thích:  “Nó sẽ là gợi ý tốt cho Việt Nam và các các quốc gia Đông Nam Á có tranh chấp tương tự trên khu vực Biển Đông, bởi vì cơ sở của nó là luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, có các án lệ quốc tế liên quan đến phân định biển… Thực tiễn quốc tế mới là cơ sở để các quốc gia giải quyết vấn đề này.  Việt Nam cũng có những vùng chồng lấn tương tự với vùng biển của Philippines và Malaysia, tuy nhiên, tình huống cụ thể với mỗi bên có rất nhiều điểm khác biệt. Trong quần đảo Trường Sa, có một số thực thể mà cả Việt Nam, Malaysia đều khẳng định chủ quyền. Những thực thể đó có những vùng biển xung quanh mà cả ba quốc gia đều cho là của mình. Giải quyết vấn đề này sẽ rất khó khăn, nhưng rõ ràng việc Việt Nam và Indonesia kết thúc được hiệp định này cho thấy, thứ nhất là các quốc gia ASEAN trong khu vực Biển Đông có những tranh chấp về chồng lấn như vậy hoàn toàn có thể giải quyết được tranh chấp này trong hòa bình và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Năm nay cũng là năm kỷ niệm 40 năm Công ước này được ký kết. Tranh chấp Biển Đông là tranh chấp đầy phức tạp. Nếu các quốc gia ASEAN có tranh chấp Biển Đông mà giải quyết được những vấn đề khúc mắc của riêng mình, thì đó cũng là một điều tốt để cho  vấn đề Biển Đông có thể được giải quyết tốt hơn. Nếu tất cả các quốc gia có tranh chấp chồng lấn như vậy mà giải quyết ổn thỏa được các vấn đề đó, thì chỉ còn lại vấn đề quan trọng nhất là đối với Trung Quốc. Điều đó cũng sẽ tạo một sức ép không nhỏ đối với Trung Quốc.”  Trong một bài viết trên trang Forbes ngày 27/12/2022, giáo sư Jill Goldenziel, Đại học Quốc Phòng Hoa Kỳ, cũng lưu ý rằng Việt Nam và Indonesia đã quyết định giải quyết tranh chấp ranh giới của họ dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), qua đó bác bỏ yêu sách của Trung Quốc về “quyền lịch sử” đối với vùng Biển Đông. Do đó, thỏa thuận này là một bước quan trọng hướng tới một mặt trận thống nhất giữa các nước láng giềng của Trung Quốc trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.  Việc lựa chọn UNCLOS làm cơ sở giải quyết tranh chấp ranh giới cũng ngầm thể hiện sự ủng hộ đối với phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực năm 2016 về vụ kiện của Philippines, bác bỏ các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.  Phản ứng của Trung Quốc ? Giáo sư Goldenziel cũng nhấn mạnh là các chi tiết của thỏa thuận giữa Hà Nội và Jakarta vẫn chưa được công khai, bởi vì nếu làm như vậy, Trung Quốc có thể sẽ đáp trả bằng các biện pháp ngoại giao, hoặc thậm chí quân sự mạnh mẽ. Cho tới nay, bất cứ khi nào một quốc gia láng giềng chính thức bày tỏ sự ủng hộ phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực về Biển Đông, Trung Quốc đều phản đối mạnh mẽ. Thỏa thuận Indonesia-Việt Nam được thông qua vào thời điểm Trung Quốc ngày càng hung hăng, khẳng định các yêu sách chủ quyền của họ ở Biển Đông. Tại khu vực ranh giới giữa Indonesia và Việt Nam,Trung Quốc có thể triển khai lực lượng dân quân biển có vũ trang, đội lốt tàu cá, để xác quyết chủ quyền đối với khu vực. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Hoàng Việt nêu lên hai lý do khác: “Trường hợp thứ nhất, thông thường, nếu một hiệp định đã được hoàn tất, thì theo trình tự, còn một bước nữa là Quốc Hội mỗi bên thông qua, thì nó mới chính thức có hiệu lực. Hiện nay vẫn chưa có lịch trình của cả hai bên, đặc biệt là bên phía Việt Nam, để thông qua văn bản này. Như thế là phải mất thêm một thời gian nữa. Trong thời gian đó hai bên sẽ đều giữ kín thông tin. Khả năng thứ hai là hai bên đã kết thúc đàm phán, tức là đã đồng ý với nhau một số nguyên tắc cơ bản, nhưng còn những vấn đề cụ thể của hiệp định thì vẫn chưa hoàn tất. Thậm chí là có những vấn đề kèm theo hiệp định đó, ví dụ như những phụ lục hay những hiệp định kèm theo thì vẫn chưa xong. Cho nên,  đó chỉ mới là bước đầu, chưa thật sự hoàn tất, chính vì vậy hai bên vẫn chưa đưa ra thông tin cụ thể trong lúc này.” Giáo sư Goldenziel, tác giả bài viết trên trang Forbes ngày 27/12/2022, cho rằng thỏa thuận Indonesia-Việt Nam có thể  là khuôn mẫu cho các nỗ lực phối hợp nhằm chống lại sự bành trướng trên biển của Trung Quốc, và là một bước tiến tới một mặt trận Đông Nam Á thống nhất chống lại các yêu sách chủ quyền phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt cũng có cùng nhận định: “ Có ý kiến cho rằng Trung Quốc cũng không hài lòng về chuyện này, bởi vì cái quan trọng nhất là Trung Quốc vẫn muốn đàm phán với ASEAN về vấn đề Biển Đông, đặc biệt là về COC ( Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông ). Nhiều người cho rằng Trung Quốc vẫn muốn ngăn cản và chia rẽ các nước ASEAN. Chính vì vậy mà Trung Quốc sẽ tìm cách can thiệp vào hiệp định này. Cũng có người cho rằng, hiệp định dù có được ký kết thì cũng phải được Quốc Hội phê chuẩn. Đối với Quốc Hội Việt Nam thì chắc là không khó khăn lắm trong việc thông qua, khi mà chính phủ đã quyết định. Nhưng đối với Indonesia lại là chuyện khác. Ngay cả tại Indonesia cũng có những nhóm thân Trung Quốc hoặc không thân Trung Quốc, vì thế Trung Quốc cũng có thể tác động bằng cách này hay cách khác. Chỉ sau khi Quốc Hội Indonesia phê chuẩn thì lúc đó mới là chắc chắn. Khả năng là có thể xảy ra, bởi vì Trung Quốc sẽ tìm cách vận động khiến cho Quốc Hội có những tiếng nói khác biệt, dẫn tới việc phê chuẩn bị chậm trễ, hoặc kéo dài hoặc là chưa biết có được thông qua hay không.” Sự hỗ trợ của Mỹ Trong bài viết nói trên, giáo sư Goldenziel còn cho rằng thỏa thuận về biên giới trên biển giữa Việt Nam và Indonesia có thể góp phần giúp Hoa Kỳ chống lại Trung Quốc trong khu vực. Theo giáo sư Goldenziel, Hoa Kỳ nên làm việc với Indonesia và Việt Nam để tăng cường thỏa thuận, nhằm hỗ trợ chiến lược quốc gia của Hoa Kỳ trong việc chống đánh bắt cá bất hợp pháp, không theo quy định và không báo cáo (IUU Fishing), đồng thời khẳng định luật pháp ở Biển Đông. Tác giả bài viết khẳng định: “Hoa Kỳ sẵn sàng hành động để hỗ trợ Indonesia và Việt Nam giúp cho  thỏa thuận thành công. Việt Nam là quốc gia ưu tiên trong Đạo luật An Toàn Hàng hải của Hoa Kỳ, một phần trong Chiến lược Quốc gia của Hoa Kỳ về Chống Khai thác IUU. Điều này có nghĩa là Việt Nam đã bày tỏ sẵn sàng hành động chặt chẽ với Hoa Kỳ để chống đánh bắt cá bất hợp pháp. Hoa Kỳ nên làm việc với Việt Nam và Indonesia để củng cố thỏa thuận của họ bằng cách cung cấp đào tạo và hỗ trợ cho lực lượng bảo vệ bờ biển của cả hai quốc gia để chống lại việc đánh bắt IUU và khẳng định các quyền hàng hải chống lại Trung Quốc. Hoa Kỳ cũng có thể giúp tiến hành các chiến dịch thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức về ranh giới biển mới và các quyền hợp pháp của cả hai quốc gia đối với khu vực. Ngoài ra, Hoa Kỳ có thể hỗ trợ cả hai quốc gia lập hồ sơ và công khai các vi phạm đánh bắt IUU của Trung Quốc trong khu vực biên giới và thực hiện hành động pháp lý bất cứ khi nào thích hợp.”
    2/20/2023
    9:32

Ähnliche Sender

Über TẠP CHÍ VIỆT NAM

Sender-Website

Hören Sie TẠP CHÍ VIỆT NAM, 1LIVE und viele andere Radiosender aus aller Welt mit der radio.de-App

TẠP CHÍ VIỆT NAM

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Jetzt kostenlos herunterladen und einfach Radio & Podcasts hören.

Google Play StoreApp Store

TẠP CHÍ VIỆT NAM: Zugehörige Sender